53. Ngày 10-01-1927 (âl. 07-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch thâu Môn Ðệ và dạy đạo.

Lundi 10 Janvier 1927 (Mùng 7-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh. Bình thân.

Chư Nhu “giữ lễ nghe”.

Thổ nhơn… thâu. Nữ phái thượng sớ. Thượng Phẩm dặn Sĩ Tải nghe.

Hiếm:

Hiếm sầu bi,
Cuộc thế mị,
Ham phú quí,
Nhiều phen đổ lụy ngậm hờn,
Trăm cay ai để gieo đờn tri âm.
Ruột gan bầm….

Thâu

Tại:

Tại nơi chít mát bóng tùng,
Trần hoàn vì nỗi đau lòng hồng nhan.
Chức Nữ khóc thầm biệt Ngưu Lang,
Trăng soi thêm chạnh lá gan vàng.
Tri hoan rượu chén cờ bàn,
Cảm cơn hội hiệp mơ màng lúc ly.
Nghe giọng tỳ ….

Thâu

Nghe:

Nghe giọng tỳ khêu mấy đoạn buồn,
Chạnh cơn thất thố với ly hương.
Chim lìa đảnh hạc bay ngơ ngáo,
Chiếc nhạn kêu thu đến bến Tương.

Thâu

Vàng:

Vàng chìm đáy biển nghĩ khôn tầm,
Biết phận tùy thời chốn gửi thân.
Truân chuyên đã bấy nhiêu lần,
Nỗi oan chín khúc ruột dần chạnh đau.
Cha mẹ nơi nào….

Thâu

Chín:

Chín chữ cù lao,
Thì mộng Nam giao,
Tịch sinh nan đào,
Phi thường một dự anh hào,
Ðạo trăm hạnh cũng lần vào nẻo Thiên.
Ðặng trọn quyền….

Thâu

Kiển:

Kiển thanh há sửa bởi tay phàm,
Biết Ðạo mà sao Ðạo chẳng ham.
Uổng kẻ nhiệt thành chiu chít phận,
Phải duyên có thuở gặp Quan Âm.

Thâu

Vĩnh:

Vĩnh tồn mạng số tới chừng nầy,
Tu kịp cùng chăng mó đến đây.
Khí chất tiêu hao không thế phục,
Rán lo âm chất chứa cho đầy.

Thâu

Triệu:

Triệu triệu nam nhi một gánh đời,
Chưa rồi công nghiệp đã mòn hơi.
Tánh trung cang đó chưa nên mặt,
Vì thuở cờ Mao chẳng phải hồi.

Thâu

Hào:

Hào hiệp lòng quen kết nghĩa cùng,
Anh hùng tứ hải bước thung dung.
Ðưa thuyền đầu núi tuy chưa đáng,
Cái dạ trượng phu sánh bá tòng.

Thâu

Toàn thâu. Chư Hiền Hữu văn từ dở lắm, trưa bữa nào cũng cầu Lão dạy.